…Múa bài bông là một điệu múa cổ Việt Nam. Múa này trong dân gian còn có một tên gọi khác là Bắt Bài Bông. Múa Bài Bông là một điệu múa nằm trong hệ thống các bản múa của nghệ thuật Ca trù, và được xem là đỉnh cao của nghệ thuật múa Ca trù. Trong nghệ thuật Ca trù - sự phối hợp tuyệt vời giữa lời ca và giọng hát hoà cùng các nhạc khí:phách, đàn đáy, trống chầu.
Điệu múa này ra đời từ thời nhà Trần. Ông Trần Quang Khải đã dựng nên điệu múa này để ca múa trong ngày lễ thái bình diên yến của vua Trần Nhân Tông. Sách Việt Nam Ca trù biên khảo có ghi chép rằng điệu múa Bài Bông là do Ông Trần Quang Khải dựng ra để ca múa trong ngày lễ Thái Bình diên yến do vua Trần Nhân Tông tổ chức sau khi đánh thắng quân Nguyên - Mông Cổ lần thứ 3.
Tuy nhiên, ý kiến khác lại cho rằng Múa bài bông do Chiêu Vương Trần Nhật Duật dựng nên. Trong sách Tuyển tập thơ Ca trù, xuất bản năm 1987, nhà thơ Ngô Linh Ngọc viết rằng: Múa Bài Bông do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật dựng nên. Lai lịch tác giả của điệu múa Bài Bông có thể chưa chắc chắn nhưng có nhiều dấu vết có thể coi đó là một điệu múa của thời nhà Trần: Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược lần thứ 2, nhà Trần có bắt được con hát Tuồng tên là Lý Nguyên Cát trong đám loạn quân của Toa Đô, sau đó Lý Nguyên Cát tự nguyện xin ở lại và dạy hát Tuồng, trong đó có vở Vương mẫu hiến đào được các con em vương hầu lúc bấy giờ tranh nhau học.
Điệu múa Bài Bông còn lại cho đến ngày nay thì về phần giai điệu ảnh hưởng khá nhiều chất nhạc của Tuồng, mang ý chúc thọ với các động tác thể hiện hình ảnh hiến đào, dâng tửu rất sang trọng và động tác thể hiển các cảnh tao nhã: hiến đào, dâng rượu. Điệu múa hội ngộ giữa tinh thần Việt Nam gắn liền với văn hóa Phật giáo, hòa nhập với sự phát triển của thiền phái Trúc Lâm.
Điệu múa này thường được sử dụng trong các dịp đại lễ của chốn giáo phường, trong không gian uy nghi ở nơi cửa đình. Điệu múa thường được sử dụng hai lần một năm vào ngày giỗ tổ Ca trù (vào tháng 3 và tháng 11 âm lịch). Điệu múa này cũng được sử dụng nơi cửa quyền tức là hát tại các dinh quan, tại các đám khao vọng chúc thọ lớn. Những nghệ nhân Ca trù vẫn coi điệu múa Bài Bông như một điệu múa dùng để múa chầu, múa ngự, và được coi là báu vật vì chỉ giáo phường lớn và dinh quan, chỉ khi hát thờ ở đình, hay hát cho vua mới có.
Thông thường chỉ có giáo phường nào lớn mạnh hay chỉ khi đi hát thờ ở mỗi dịp tế lễ ở đình, ở dinh quan, hay vào kinh hát chầu vua thì mới có được một đội múa Bài Bông, vì chi phí để thành lập một đội như vậy rất tốn kém. Sách Việt Nam Ca trù biên khảo, do 2 tác giả Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề biên soạn, xuất bản năm 1962 khẳng định rằng: “Múa Bài Bông là nhã nhạc của đế vương thịnh điển nhất trong nhạc giới”.
Đội múa trong điệu múa Bài Bông có ít nhất là 4 người. Tuỳ theo mức độ quan trọng của không gian diễn xướng, mà tăng số lượng người lên gấp đôi: hoặc 8 hoặc 16. Vào những dịp đại lễ thì đội múa phải có 32 người múa.
Về trang phục các cô khi múa thì mặc áo mã tiền thêu kim tuyến, chân áo đính chân chỉ hạt bột, trên mũ gắn một quả bông, hai vai bên vai đeo đèn hình hoa sen, tay cầm quạt tầu, lúc thì xếp quạt, lúa xòe quạt linh hoạt và trông rất vui mắt. Các cô vừa múa vừa hát, động tác múa ứng hợp với lời hát đã được cách điệu đi nhiều, động tác múa lạ không giống với bất cứ lối múa của các nghành nghệ thuật nào. Đi kèm với đội múa là một đội nhạc: có Quản giáp cầm trống cái giữ nhịp, một người đánh đàn đáy, một đàn nguyệt bốn dây (vẫn gọi là đàn tứ đoản); một đàn tam; một trống mảnh, chiêng và trống cơm, nhạc tấu khoan thai, vui tươi gợi nên cảnh thái bình.
Múa Bài Bông gồm 9 màn nhưng trên thực tế chỉ diễn 6 màn theo thứ tự: Một bài hát Kéo ra (Tựa như màn giáo đầu). Bài hát Xuân ca ngợi cảnh sắc tươi vui đất nước vào mùa Xuân, cũng thế các bài Hạ - Thu - Đông diễn xướng linh hoạt tùy theo tiết mùa - Sau bài hát Xuân đến bài hát Khách - Tiếp tục là bài Thời Hồ (Tức là Đào viên kết nghĩa) bài hát Khách và kết thúc là bài Kéo vào. Múa đủ 6 màn hết gần một tiếng. Từ trước đến nay hiếm có một điệu múa nào kéo dài như thế.
Trong chốn giáo phường người ta vẫn coi điệu Bài Bông là một điệu múa chúc thọ, nhưng trên thực tế khi tìm hiểu và phân tích ý nghĩa thông qua sự sắp xếp các màn múa, mức độ quan trọng, và những dấu hiệu đặc biệt ở bài Thời Hồ thì thấy đây không phải đơn thuần là một bài múa mang tính chất chúc thọ mà chính là điệu múa xưng tụng cảnh đất nước thanh bình cũng như ý nghĩa thành công của 3 lần chiến thắng quân Nguyên - Mông xâm lược tạo nên hào khícủa vương triều nhà Trần.
Đó cũng là những thông tin duy nhất còn sót lại về sự ra đời của múa Bài Bông. Tư liệu còn để lại cho thấy vào dịp Tứ tuần đại khánh (Mừng thọ 40 tuổi) của vua Khải Định (năm 1924) thì đoàn ca công ở Thanh Hóa đã đưa điệu múa này vào trong Huế để biểu diễn chúc thọ vua.Tiếp đó là hai tấm ảnh về một đội múa Bài Bông của bác sĩ Charles-Edouard Hocquard, một vị bác sĩ quân y đã theo đoàn viễn chinh Pháp sang Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Năm 1980, có thu được một phần nhạc của điệu múa Bài Bông do nghệ sĩ Kim Đức dựng lại. Vào năm 2007, sau 6 tháng vừa luyện tập, vừa may trang phục, điệu múa này đã chính thức ra mắt tại chùa Trình (Yên Tử) Quảng Ninh ngày 9/12/2007
Múa bài bông tuy đơn giản về động tác, nhưng đòi hỏi người múa phải thuộc lời hát để khớp đúng động tác với từng câu hát, rất khác so với múa thông thường khi vũ công chỉ cần nghe nhạc là có thể múa được. Lời bài hát xưa được viết bằng chữ Hán, rất khó học thuộc.