Lễ phục và trang phục truyền thống của mỗi dân tộc được hình thành sau một quá trình lịch sử lâu dài và bao giờ cũng tuân thủ các nguyên tắc về phong tục, lễ nghi, văn hóa bản địa. Ngoài ra các yếu tố thẩm mỹ dựa theo nhân dáng cũng như đức tính đặc thù của dân tộc đó cũng được tôn trọng. Các nguyên tắc này gần như bất biến và được truyền nối, kế thừa qua các triều đại và thời đại.
Ở nước ta, sự kế tiếp truyền nối trải dài từ thời Đinh, Lý lập quốc được thể hiện cho đến triều Nguyễn, trước khi bị chặn đứng bởi nền văn hóa ngoại lai do thực dân Tây phương áp đặt từ cuối thế kỷ 19. Trang phục và chữ viết theo lối Tây phương quả có nhiều thuận tiện. Nhưng người Nhật vẫn được cả thế giới kính nể vì những tiến bộ về kinh tế, khoa học, song song với văn hóa truyền thống của họ, mà không cần mẫu tự Latin. Và người Nhật rất tự hào với lễ phục truyền thống nghìn năm tuổi rất rườm rà, nhưng được cả thế giới hâm mộ.
Một hoàng phi trong áo tấc nữ
Những sáng tạo bất thành
Trước nay cũng đã có nhiều dự định sáng tạo ra lễ phục, hay ít nhất là trang phục phổ thông, trên thế giới (tỷ dụ như áo đại cán của Trung Quốc, hay áo Nehru ở Ấn Độ) nhưng chỉ xuất hiện thoảng qua rồi thất sủng vì không hợp với hồn dân tộc hay thẩm mỹ. Ngoài ra cũng có trường hợp muốn tạo ra trang phục tổng hợp cho các dân tộc, nhưng chưa thấy kết quả. Điển hình là nỗ lực của Hoàng hậu “Sissi” Elizabeth (1854-1898) của Áo. Từ năm 1867, Elizabeth được phong làm nữ vương của Hungary, Bohemia và Croatia. Bà thật sự yêu mến các dân tộc này, và muốn hòa đồng với tất cả bằng cách tạo ra một trang phục chung có đủ tinh thần của cả bốn nước, để tiện cho các dịp lễ trong toàn thể đế quốc Áo - Hung. Nhưng chuyện không thành vì trang phục truyền thống của các nước đó đều khác biệt rõ nét. Và các dân tộc này rất hãnh diện với nền văn hóa riêng của họ, vì thế nếu áp đặt sẽ dễ gây hận thù, nguy hiểm.
Trước đó người Mãn Thanh cũng không thành công trong việc dung hòa quần áo Hán, Mãn. Ở Việt Nam thì sau bao năm vua Minh Mạng vẫn không khiến được dân Đàng Ngoài ăn mặc theo lối Đàng Trong. Để cho đến mấy mươi năm trước đây phụ nữ Bắc Bộ vẫn còn thung dung với “quần không đáy” và áo tứ thân.
Xiêm
Việc cố gắng thay đổi quan niệm trang phục truyền thống lâu đời của một dân tộc thường không đạt kết quả. Lấy thí dụ ở áo dài Việt Nam. Từ thời Pháp thuộc cho đến nay đã có không biết bao nhiêu người cố gắng thay đổi cái áo dài phụ nữ, nhưng phần nhiều vì không hiểu các quy tắc về tâm hồn Việt, cũng như thiếu quan tâm về vấn đề nhân dáng, mỹ thuật nên không thành công. Các cụ ta luôn tôn trọng tính kín đáo của phụ nữ Việt và cũng hiểu rất rõ các ưu và khuyết điểm trong nhân dáng của người mình. Tóc luôn phải che giấu trong khăn và cổ vì phong tục mà phải che kín đấy, nhưng các cụ biến khăn cuộn tóc thành nhỏ gọn để khoe gáy, trong khi cổ áo rất thấp và ôm cổ. Như thế để cho cái cổ thường không cao của phụ nữ Việt trông cao và thanh tú hơn khi mặc áo dài. Cách cắt tay áo và ngực ôm trong khi eo và tà buông thả của áo dài cổ truyền cũng để cho người phụ nữ già trẻ, béo gầy hay cao thấp khi mặc vào trông cũng đều trang nhã. Một người béo bụng nhưng vì không hiểu biết mà muốn mặc áo dài bó eo chặt thì thật phản cảm, mất thẩm mỹ.
Cũng vì lý do này mà dù cố gắng nhiều, nhưng các đại phu nhân họ Tống của thời Dân Quốc đầu thập niên 1920 bên Trung Hoa cũng không thành công trong việc quảng bá áo xường xám của họ vào lịch sử trang phục Trung Quốc. Chân phụ nữ Trung Hoa phần lớn không thon dài đủ để được khoe ra như thế. Trong khi cổ của họ cũng không cao đủ để chịu đựng cái cổ áo cao, cứng ngắc. Áo xường xám vì thế chưa bao giờ được giới sành điệu trên thế giới để ý, và luôn bị cho là một phiên bản không thành công từ áo dài Việt Nam.
Ba dạng lễ phục truyền thống Việt Nam
Lễ phục truyền thống Việt Nam khá đa dạng. Các loại trang phục này được phân loại theo hình dáng. Nhưng cách phổ biến hơn là gọi tên theo cách cắt của cổ áo. Theo cách này thì ngày xưa nước ta có ba dạng lễ phục: giao lĩnh, trực lĩnh và bàn lĩnh.
Giao lĩnh có cổ cắt vạt chéo cài sang bên phải. Đây là lễ phục trang trọng nhất trong các lễ phục cổ truyền, được mặc trong các lễ tế. Cao cấp hơn cả của loại này là áo cổn ở trong cung, may bằng đoạn thất thể rất quý hiếm, thường được vua, quan mặc trong lễ tế giao. Trong triều còn loại giao lĩnh gọi là phổ (bổ) phục, may bằng vải thanh cát để mặc trong các lễ thường, những buổi tập dượt cho các kỳ đại tế.
Khi mặc giao lĩnh thì trên đầu phải đội mũ, miện. Áo may rất rộng, xẻ bên hông. Tay áo cắt thụng, khi buông xuống dài bằng gấu áo. Các nước Đồng văn trọng Khổng giáo ở Á châu như Trung Quốc, Nhật, Hàn và Việt Nam đều có áo này. Dưới thời Nguyễn ở Việt Nam phụ nữ không mặc giao lĩnh. Hiện nay trong nhiều lễ tế đình ở các làng, xã, người mình vẫn mặc áo giao lĩnh.
Trực lĩnh có vạt xẻ dọc ở giữa thân trước. Lễ phục trực lĩnh trong cung thời Nguyễn dành riêng cho các bà và gọi là áo mệnh phụ. Trong khi đó các nam đạo sĩ Lão giáo bên Trung Quốc lại có mặc áo được cắt y hệt như áo mệnh phụ của phụ nữ Việt. Áo nhật bình của các sư sãi trong nước cũng thuộc dạng trực lĩnh. Lễ phục trực lĩnh may rộng, xẻ bên, và có tay cắt thụng dài bằng gấu. Áo được xẻ vạt bên hông. Áo trực lĩnh phổ thông nhất ngoài dân gian là áo dài tứ thân của phụ nữ miền quê Bắc Bộ, nhưng không thuộc chủng loại lễ phục.
Bàn lĩnh tức áo cắt cổ tròn, có hoặc không cổ, vạt cài sang phải, là loại lễ phục phổ thông nhất ở nước ta trước đây. Ở trong cung áo này được cả nam lẫn nữ sử dụng dưới dạng long, phượng, và mãng bào; cho vua, hậu phi, và các vương công, quan lại mặc trong đại lễ. Áo được may bằng gấm thất thể quý hiếm, có cổ tròn. Áo rất rộng, xẻ bên, tay cắt thụng dài bằng gấu áo. Áo được mặc trong các lễ đại triều, triều yến.
Giao lĩnh, bàn lĩnh, bàn cổ đứng, trực lĩnh
Lễ phục bàn lĩnh phổ thông nhất ngày xưa của người Việt có cổ đứng, gọi là áo tấc. Áo cũng cắt rộng, xẻ bên, với tay thụng dài bằng gấu, cài khuy phải như áo dài, đi đôi với khăn vấn cho cả nam lẫn nữ, và sau này là khăn xếp cho đàn ông. Áo này được mặc trong các lễ yết miếu, từ đường, việc hỷ như cưới xin, cũng như các việc thăm viếng quan trọng.
Áo dài 5 thân cổ đứng cũng thuộc dạng bàn lĩnh. Gọi là 5 thân, hay 5 tà, vì áo được ghép bằng 5 mảnh vải. Mỗi thân trước, sau gồm 2 mảnh nối lại với nhau dọc giữa thân, thêm tà phụ bên phải trong vạt trước cho kín đáo. Phải cắt như thế vì khổ vải ngày xưa rất hẹp. Sau này từ thời vải Tây phương nhập vào với khổ rộng, hai tà trước không phải nối, áo dài trở thành 3 thân như ngày nay. Cũng vì khổ vải xưa hẹp cho nên tay áo dài 5 thân phải nối ở gần khuỷu. Cổ áo năm thân phụ nữ xưa thấp khoảng 2 đến 2,5 cm. Cổ áo nam cao khoảng 3,5 cm. Áo dài nam có gấu ngắn đến dưới đầu gối, trong khi áo phụ nữ dài đến dưới bắp chân. Gấu áo rộng trên 70 cm để ôm tà, gấu áo trước được cắt võng.
Áo dài 5 thân được mặc vào trong tất cả các loại áo bào kể trên khi làm lễ. Thường trong các buổi lễ người ta mặc áo dài, và chỉ khoác áo bào vào khi hành lễ. Hành lễ xong lại chỉ mặc áo dài. Vào các dịp tiếp tân trọng đại trong triều đình thời cuối Nguyễn, người ta đeo thêm các huân, huy chương, hay bội tinh với dải đeo (sash), lên áo dài. Ở ngoài phố, khi có khách đến thăm bất ngờ thì chủ nhà cũng chỉ khoác vội lên người cái áo dài là xong.
Các áo lễ mùa Thu, Đông được may bằng các loại vải dày như gấm, đoạn. Xuân, Hạ, thì may bằng vải mỏng như sa, the. Ngoài ra còn một chi tiết rất quan trọng trong quy định về lễ, triều phục ngày xưa, là khi mặc áo lễ không được để lộ cho thấy quần.
Áo tấc (bàn lĩnh) với cổ đứng và áo dài là 2 loại lễ phục đặc trưng Việt. Tự cổ chí kim không nước nào khác trên thế giới có hai loại trang phục này ngoài nước ta. Tiếc rằng ngày nay cả áo dài lẫn khăn xếp nam phái ở nước ta thường bị nữ hóa để trở nên lòe loẹt, thõng thượt, mất hết sự trang trọng và vẻ nam tính.